Hiện nay nhiều cá nhân, tổ chức có tỷ lệ sở tại các ngân hàng khá lớn, điều này mang đến những hệ lụy cũng như rủi ro nhất định. Mới đây, các chuyên gia cũng có để xuất giảm tỷ lệ sở hữu tại các ngân hàng để gia tăng việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng.
Để xuất giảm tỷ lệ sở hữu
Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đề xuất giảm tỷ lệ sở hữu tối đa của một cá nhân, tổ chức từ mức 5% và 15% vốn điều lệ của một ngân hàng xuống còn 3% và 10%. Tương tự, tỷ lệ sở hữu của nhóm cổ đông và người liên quan cũng được đề xuất giảm từ 20% xuống 15%.
Đề xuất giảm tỷ lệ này được đưa ra nhằm mục đích chấm dứt tình trạng sở hữu chéo, giảm xung đột lợi ích khi cấp tín dụng và hạn chế việc lạm dụng quyền cổ đông lớn tại các ngân hàng, từ đó tăng tính an toàn cho hệ thống ngân hàng Việt.
Lợi ích của việc giảm tỷ lệ sở hữu ngân hàng
Theo đánh giá của các chuyên gia, mục tiêu nói trên là cần thiết, tuy nhiên biện pháp giảm tỷ lệ sở hữu tối đa để đạt được mục tiêu này không thực sự có nhiều ý nghĩa, chưa nói đến việc có thể tạo ra rào cản ngăn dòng vốn ngoại chảy vào hệ thống ngân hàng nội.
Theo Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tỷ lệ sở hữu tối đa tại các tổ chức tín dụng ở các mức 5%, 15% và 20% tại Việt Nam hiện nay tương đối thấp so với nhiều quốc gia trên thế giới. Tỷ lệ thấp này không làm giảm tình trạng cấp tín dụng tập trung cho một nhóm khách hàng có liên quan – hiện trạng vẫn đang diễn ra tại một số ngân hàng theo kết luận của Thanh tra Chính phủ đầu tháng 7/2023, theo đó làm tăng rủi ro của hệ thống.
Quy định về tỷ lệ sở hữu tối đa, trong trường hợp này, không thực sự phát huy tác dụng, các cổ đông dù không rơi vào trường hợp người có liên quan theo định nghĩa của luật, vẫn có liên kết chặt chẽ với nhau để đồng thuận cấp tín dụng rất tập trung, theo VCCI.
Cùng chung quan điểm với VCCI, Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc công ty Luật ANVI, cho rằng giảm tỷ lệ sở hữu không thực sự ngăn chặn sở hữu chéo, khi những người chủ ngân hàng nắm giữ 15-20% vốn ngân hàng không thể lũng đoạn các hoạt động cho vay của chính tổ chức đó. Trên thực tế, những trường hợp sai phạm vừa qua cho thấy tỷ lệ sở hữu thực sự của những người chủ này cao hơn rất rất nhiều so với quy định, thông qua các công ty con, công ty liên kết hoặc các cá nhân đứng tên hộ.
Rào cản cho vốn đầu tư nước ngoài
Lĩnh vực tài chính ngân hàng của Việt Nam luôn nằm trong tầm ngắm của nhiều nhà đầu tư ngoại, bao gồm cả nhà đầu tư cá nhân và các định chế tài chính quốc tế lớn từ nhiều năm nay nhờ tiềm năng phát triển dồi dào và phong phú. Tuy nhiên đây là lĩnh vực có giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài, hay còn gọi là room ngoại, và nhiều ngân hàng luôn trong tình trạng kín room – gây nuối tiếc cho không ít nhà đầu tư cá nhân và tổ chức.
Nay, nếu tỷ lệ sở hữu ngân hàng tiếp tục bị siết, có lẽ sức hấp dẫn của lĩnh vực ngân hàng Việt trong mắt nhà đầu tư nước ngoài sẽ ít nhiều suy giảm. Bởi lẽ việc siết tỷ lệ sở hữu ngân hàng, có thể “làm khó” cho các nhà đầu tư ngoại muốn rót vốn vào các ngân hàng nội. Và ở chiều ngược lại, nỗ lực cải thiện nền tảng vốn, nâng cao năng lực tài chính và phát triển lành mạnh trong dài hạn của các ngân hàng nội cũng trở nên khó khăn hơn khi họ không thể chào bán một tỷ lệ cổ phần đủ hấp dẫn với nhà đầu tư ngoại.
Đó là chưa kể đến, chủ trương của Nhà nước là khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia hỗ trợ tiến trình phát triển của ngành ngân hàng nói chung, hoạt động tái cơ cấu các tổ chức tín dụng yếu kém nói riêng. Nhiều đề xuất vừa qua còn mong muốn nới room ngoại lên mức cao hơn so với quy định hiện hành (tới 49%) để hấp dẫn nhà đầu tư ngoại vào các tổ chức tín dụng yếu kém. Nay nếu tỷ lệ sở hữu bị siết chặt, sự quan tâm của nhà đầu tư ngoại đến ngân hàng Việt chắc chắn khó tránh khỏi sự ảnh hưởng khi dòng vốn bị cản trở như vậy.
Trên đây là những thông tin về việc giảm tỷ lệ sở hữu ngân hàng cũng như những tiềm năng đối với vốn đầu tư nước ngoài. Mong rằng, bài viết trên sẽ hữu ích với bạn. Chúc bạn thành công!